DIỄN-VĂN KHAI-GIẢNG NIÊN-KHÓA ĐẦU TIÊN CỦA VIỆN ĐẠI-HỌC CẦN THƠ — PHẠM-HOÀNG HỘ
Phạm Hoàng Hộ
Viện trưởng sáng lập (27-7-1929 — 29-1-2017)
DIỄN-VĂN KHAI-GIẢNG NIÊN-KHÓA ĐẦU TIÊN CỦA VIỆN ĐẠI-HỌC CẦN THƠ
(15 - 10- 1966 )
Thưa Quý Vị,
Lập một Viện Đại-học là một công-trình to tát, nhất là trong tình-trạng nước-nhà hiện tại. Tôi dầu tài-sức đến đâu cũng không thể gánh-vác nổi công-cuộc ấy, nếu không được sự cộng-tác chân thành của tất cả chúng ta. Nhân-danh Viện Đại-học Cần thơ, tôi xin thành thật cám-ơn chánh-quyền trung ương cũng như địa phương, đã giúp Đại-học có một số cơ-sở để bắt-đầu hoạt-động. Chúng tôi cảm-động cám-ơn các nhân-sĩ hảo-tâm đã kẻ giúp tiền, người giúp của, để bước đầu của Viện được dễ-dàng. Chúng tôi thành-thật cám-ơn các vị Khoa-trưởng đã chia sớt gánh nặng và các bạn Đồng-nghiệp ở Saigon đã chịu giúp chúng tôi trong sự giảng-dạy.
Các cơ-sở hiện-hữu chỉ đủ cho bước đầu. Viện Đại-học Cần-thơ đang nghiên-cứu một dự-án và kế-hoạch để phát-triển cho đến mức tối-thiểu của nó. Chúng tôi hy-vọng rằng Chánh-phủ sẽ giúp chúng tôi thực-hiện kế-hoạch tối-cần ấy.
Nhưng chúng tôi không tin rằng khi đã có cơ-sở, mời giáo-sư đến dạy, là ta đã lập ra một Đại-học. Lý tưởng giảng-dạy ở Đại học là truyền lại tất-cả các sự hiểu-biết của chúng ta cho sinh-viên, đề làm sao một ngày kia họ có thể bằng chúng ta hay hơn chúng ta. Muốn như vậy không phải chỉ đến mỗi tuần dạy vài giờ hay mỗi tháng đến một kỳ là được.
Viện Đại học cần có giáo-sư thường-trực để tiếp-xúc thường với sinh-viên, để theo-dõi sự học-vấn của họ, giúp-đỡ họ, đề tìm xem cách giảng-dạy của mình có hợp với họ không và, nhờ vậy, bồi-bổ cho chính mình. Ngược lại, chỉ nhờ có tiếp-xúc trực-tiếp với giáo-sư mà sinh-viên mới có thể thâm-hiểu các điều mà họ học. Kinh-nghiệm cho thấy rằng một giờ tiếp-xúc với sinh viên để cho họ hỏi, họ trình-bày ý-kiến, giúp họ tiến bằng nhiêu tuần thụ-động ngồi nghe giảng. Viện Đại-học Cần-thơ sẽ ráng phát-triển các cuộc tiếp-xúc này dưới thể những buổi học hướng-dẫn.
Hơn nữa, dù ở lãnh-vực nào ta cũng có cái đại-cương, áp-dụng vào đâu cũng được và cái địa phương, riêng biệt cho từng Vùng. Cái yếu của một sự học là không biết rõ cái nào đại-cương, cái nào địa-phương. Nếu cho rằng cái nào cũng đại-cương, áp-dụng vào đâu cũng được, thì rất nguy-hại. Tôi còn nhớ lúc mới về nước, thấy dạy Fucus serratus làm mẫu Rong nâu của biển Việt, việc ấy kỳ-khôi cũng như lúc xưa ta học «nos ancêtres les Gaulois».
Ngược lại, nếu lấy địa-phương mà suy rộng ra cũng không được vì thường hẹp-hòi, thiển-cận hoặc sai-lạc. Song nhiều khi cái địa-phương, nếu biết rõ, thường cho thấy cái hay, cái đẹp riêng, và lắm lúc trở thành kho-tàng chung không những của dân-tộc mà của cả nhân-loại. Ta há không biết rằng M. Pagnol, mô-tả các đặc-điểm của đời sống vùng Midi nước Pháp, đã khám-phá một khía-cạnh mới của lòng người và đã dùng cái địa-phương mà vói tới cái cao-quý nhất có trong tất cả thiên-hạ hay sao?
Ta có xu-hướng dùng cái đại-cương để đè-bẹp địa-phương, hay tệ hơn nữa dùng một cái địa-phương này cho rằng hay đề che lấn một địa-phương khác, cho rằng như vậy là thống-nhất. Nhưng ta quên rằng như vậy là thống-nhất trong nghèo-nàn, không còn sự phong-phú của các biến-thiên.
Tôi chắc-chắn rằng hiểu rõ vùng tam-giác-châu này sẽ đem lại cho Văn-hóa Việt-Nam nhiều thu-thập quí-giá, giúp ta yêu thêm non sông gấm-vóc của chúng ta.
Muốn hiểu rõ cái đại-cương và cái địa-phương ấy, phải có khảo-cứu. Đại-học không khảo-cứu chỉ là một Trung-tâm phổ-biến kiến-thức từ-chương, một Trung-học nới rộng; đó là một điều mà chúng ta phải tránh, dù với giá nào.
Chúng ta phải khảo-cứu ở mọi lãnh vực, văn chương cũng như triết-học, địa-lý cũng như sử-học, khoa-học thuần-túy cũng như khoa-học áp-dụng. Nói tới khảo-cứu, chúng ta không nên hình dung nhà thông-thái chỉ biết phòng thí-nghiệm, thư viện, mẫu-vật, dụng-cụ mà thôi. Chúng tôi hình-dung những nhà khảo-cứu cân-xứng, đầy-đủ hơn. Trước khi đi vào lãnh-vực kiến-thức hoàn-toàn thuần-túy, chúng tôi cho rằng phận-sự của nhà khảo-cứu là phải thích-nghi các kiến-thức của mình vào hoàn-cảnh sinh-tồn. Chúng ta ai đã quên câu của Tôn-võ-Tử «biết người biết ta, trăm trận trăm thắng». Nếu ta chẳng biết ta, làm sao ta là người hoàn-toàn được. Kiến-thức là để chế-ngự thiên-nhiên, môi-trường; nếu kiến-thức ấy chỉ hoàn-toàn lý-lưởng thì làm sao nó thi-hành sứ-mạng ấy?
Ta từ lâu quen thói học từ-chương quá trọng thuần-túy, quên thực-tế. Óc «hủ nho» ấy còn thấm-nhuần chúng ta cho đến khi ta nói đến khảo-cứu là ta còn chỉ hình-dung khảo-cứu ở phòng thí-nghiệm, ở thư-viện, bất-chấp kết-quả hữu-dụng hay không. Mà ta quên khảo-cứu chính ta, ta quên biết ta; và vì không biết ta nên ta chưa thúc-đẩy nổi dân ta theo nhịp-điệu canh-tân hiện-tại. Vì thiếu kiến-thức căn-bản, vì chưa hiều rõ xã-hội, lập-quán của ta mà ta chưa thắng nổi bức tường mù ta có thể gọi là đen, làm cho ta vẫn ở tinh-thần chậm-tiến. Thật vậy, từ khi dân Việt-nam ta thâu-đoạt được mảnh đất phì-nhiêu này cho đến nay có vừa hơn 200 năm. Song thật ra từ đó đến giờ chúng ta vẫn sống với nếp kỹ-thuật cổ-truyền. Canh-nông của ta là canh-nông của thế-kỷ đã qua ; tư-tưởng của ta là tư-tưởng của thấm-nhuần truyện Tàu phong-kiến; quan-niệm của ta về chánh-trị, về giáo-dục công-dân là quan-niệm của người quen bị trị hơn là dân-chủ cầu-tiến.
Sự phì-nhiêu của đất vùng tam-giác-châu sông Cửu-long tạo ra cây cỏ sum-sê rậm-rạp làm cho chúng ta chỉ nghe nói về các luồng gió khoa-học hiện tại, xã-hội tân-tiến, đời-sống mới, nhưng chúng ta chưa trực-tiếp hưởng các luồng gió ấy. Đại-học Cần-thơ sẽ ráng sức với sự trợ-giúp của mọi mặt, chánh quyền cũng như nhân-dân, để đốn ngã các cây che gió ấy, để cho dân ta có hy-vọng chạy theo kịp trào-lưu sinh-hoạt của thế-kỷ của khoa-học, của điện-tử, của vệ-tinh nhân-tạo.
Muốn như vậy, cần phải có một chương trình rộng-rãi. Chương-trình ấy đòi hỏi một quan-niệm mới của ta về Đại-học, một đường lối mới, một trào-lưu hiện tại, tránh sự ngăn-biệt cứng-rắn và đáng-tiếc giữa người dạy và sinh-viên. Chương trình ấy cần một sự trợ-giúp đắc lực, tích-cực của chánh quyền địa-phương, sự cộng-tác này là điều-kiện căn-bản nếu không chắc-chắn ta lại phải bước theo vết cũ.
Chương-trình ấy lẽ tất-nhiên đòi-hỏi một số cán-bộ. Ngoài việc Viện Đại-học Cần-thơ đang nghiên-cứu một kế-hoạch đề giúp các cộng-sự viên mau tiên trên đường học-vấn, Viện đặc-biệt chú-ý đến việc quyến-rũ trí-thức về tại Cần-thơ để phục-vụ.
Muốn giải quyết vấn-đề này ta có thể hỏi ngược lại, vì sao nhiều người đã rời Tỉnh nhỏ sang Tỉnh lớn, sang Đô-thị ?
Chắc-chắn là các điều-kiện vật chất dự một phần trong hấp-dẫn ấy. Ở Đô-thị to, chúng ta gặp tất-cả tiện-nghi cho sự sống hằng ngày, đủ phương-tiện trong sự làm việc, nhiều thư-viện, nhiều nhà sách. Nhưng chúng ta lầm to nếu cho đó là nguyên-nhân chánh cầm chưn họ lại tại
Đô thị. Rủi thay đó là ý-nghĩ của phần đông dân chúng.
Nguyên-nhân chánh là không-khí ở các thành-phố to theo mức sống hiện tại, dễ thở hơn, trong đó ai cũng như nhau, chìm trong số đông và được hưởng sự vô-danh quí-báu. Họ có thể phụng-sự cho công-chúng mãi-mãi, nhưng phụng-sự trong các giờ làm việc. Ngoài giờ ấy họ có quyền dành cho gia đình, cho đời-sống tư của họ.
Về phương-diện ở các Tỉnh nước ta, điều-kiện trên chưa được thực-hiện, và không-khí của Tỉnh thường quá gò-bó cho người sống hiện lại quen tự-do. Đó là điều chánh mà tôi ước-mong chúng ta, Đại-học, Chánh-quyền và nhất là quý vị Phụ-huynh và Công-dân vùng này góp sức sửa-chữa.
Tôi còn nhớ lúc xin về nước, tôi không xin về Saigon, mà xin về Cần-thơ hoặc Nha-trang, chỉ vì sợ «đời sống xa-hoa» của Đô-thị không hợp cho sự làm việc hơn các Tỉnh. Tôi tưởng đó cũng là ý-nghĩ của nhiều anh em hiện đang ở ngoại-quốc.
Nhưng ta nhận thấy gì trong các năm vừa qua?, nhận thấy gì về các anh em đã về phụng-sự ở các Đại-học tỉnh? Là phần-đông sau một thời-gian phụng-sự ở Tỉnh lại xin đổi về Sài-gòn.
Đó là do một lý-do khác quan-trọng hơn : lý-do chánh trị. Thật vậy, một nguy-hại cho nền Đại học nước ta là dễ bị chánh-trị làm hư, nếu không nói là giết chết. Nói như vậy có nghĩa là ta phải giữ Đại-học ngoài các thủ-đoạn chánh trị, nhưng không có nghĩa là người sinh viên, giáo chức không ngó ngàng gì đến vận-mạng, tương-lai nước nhà. Kinh-nghiệm cho thấy rằng các luồng chánh-trị-hóa Đại-học ở nước ta đều chỉ có mục-đích lợi dụng sinh-viên để phụng-sự một ý-kiến nào, một nhóm, có khi một cá-nhân nào, chớ không phải phụng-sự tương-lai xứ-sở. Chúng ta không nên quên rằng đem chánh-trị vào Đại-học là xâm-phạm đến quyền tự trị tinh-thần, thiêng-liêng của Đại-học. Tôi chắc-chắn rằng ai cũng tin như tôi là chúng ta chỉ phụng-sự hữu hiệu nước nhà khi ta đã học đủ, đã thu thập tất-cả khả-năng cần-thiết. Các sự bồng-bột lâm thời thường không đem lại kết-quả gì. Trí-thức chúng ta tìm cái gì bền vững, chớ cái hư-danh lâm-thời như vậy không đáng cho chúng ta. Mà cái gì bền vững chúng ta chỉ thu-thập được sau khi được đào-tạo đàng hoàng ở một Đại-học có nề-nếp qui-cũ.
Như vậy, vì quyền lợi muôn-thuở của Đại-học Cần-thơ, nghĩa là của con em chúng ta vùng này, tất-cả chúng ta, dù Phụ-huynh sinh-viên hay không, đều có phận-sự giữ vững Đại-học ở ngoài cái lâm-thời phiêu-lưu của các biến-cố chánh trị.
Viện Đại-học Cần thơ là thí-điểm quan-trọng. Tôi nói đến thí-điểm không phải chỉ để nói rằng đây là một nơi để ta tìm các phương pháp, đường-hướng cho tương-lai. Nhưng tôi nói đến chữ thí-điểm vì nghĩ đến một khía-cạnh: đây là một trong những công-trình xây dựng quan-trọng của người Việt-nam, sự thành-công hay thất-bại của nó là một trong những tiêu-chuẩn để nhiều người và ta phê-xét ta.
Vậy, với tất cả sự cảm động và lo-âu trong lòng, tôi trân-trọng mời sự cộng-tác của Quý Vị.
PHẠM-HOÀNG HỘ
Nguyễn Duy Xuân
Viện trưởng thứ 2 (1925 — 1986)
Nhận xét
Đăng nhận xét